Views: 43

Quan hệ đối tác mong manh giữa Iran và Nga (Maria Snegovaya và Jon B. Alterman)

Quan hệ đối tác mong manh giữa Iran và Nga (Maria Snegovaya và Jon B. Alterman)

Quan hệ đối tác mong manh giữa Iran và Nga. Mỹ làm cách nào để có thể chia rẽ hai đối thủ chính của mình.

Kể từ khi bắt đầu cuộc xâm lược Ukraine, Nga và Iran đã cùng chung mục tiêu ban đầu. Nga đã hỗ trợ quân sự, bảo vệ ngoại giao và cung cấp thông tin tình báo cho Iran. Đổi lại, Tehran đã cung cấp cho Moscow vũ khí và tăng cường tuyên truyền cho Điện Kremlin. Ví dụ, vào tháng 7 năm 2022, Lãnh tụ tối cao Iran Ali Khamenei đã mô tả NATO là một “sinh vật nguy hiểm” và tuyên bố rằng, nếu Nga không chủ động, phương Tây sẽ gây ra chiến tranh ở Ukraine.

Đối với những nhà quan sát cả hai quốc gia, mối quan hệ đối tác này không có gì đáng ngạc nhiên. Hai quốc gia này nằm trong số những đối thủ không đội trời chung của phương Tây. Kể từ cuộc cách mạng năm 1979 của Iran, các nhà lãnh đạo của nước này đã cật lực chống Mỹ, tuyên bố mục tiêu của Mỹ là liên tục thực hiện các âm mưu cô lập và phá hoại chính phủ Cộng hòa Hồi giáo. Trong khi đó, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã lập luận rằng, cuộc chiến với Ukraine thực sự là một cuộc chiến với một NATO tham lam muốn phá hủy Nga. Hai quốc gia này là những kẻ bị ruồng bỏ trên trường quốc tế, phải chịu các lệnh trừng phạt khắc nghiệt và cần có đối tác ở bất cứ nơi nào họ có thể tìm thấy. Và cả hai đều do các nhà lãnh đạo độc tài cá nhân cai trị với sự hỗ trợ của giới tinh hoa đầu sỏ phần lớn được tách biệt khỏi sự giám sát.

Nhưng bất chấp những điểm tương đồng giữa hai quốc gia, quan hệ đối tác của họ có thể trở nên mong manh hơn nhiều so với vẻ bề ngoài ban đầu, Iran và Nga có chung kẻ thù và hệ thống chính phủ. Tuy nhiên, họ có lịch sử xung đột lâu dài, một lịch sử chưa bao giờ biến mất hoàn toàn. Về mặt kinh tế, họ là những quốc gia dầu mỏ cạnh tranh cho cùng một thị trường. Về mặt chính trị, họ đang đấu khẩu về việc ai sẽ là cường quốc chính ở Kavkaz và Trung Á. Họ cũng có cách tiếp cận khác nhau đối với Trung Đông. Thật vậy, ngoài việc làm suy yếu bá quyền của phương Tây, họ không chia sẻ bất kỳ chương trình nghị sự quốc tế thống nhất nào. Ngay cả khi nói đến Washington, họ cũng có những khác biệt về mặt chiến lược. Trong cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 2024, Nga đã tìm cách giúp Donald Trump. Trong khi đó, theo Bộ Tư pháp Hoa Kỳ, Iran đã âm mưu ám sát ông.

Washington và các đối tác của mình nên nắm bắt những khác biệt này để tạo ra sự chia rẽ giữa Moscow và Tehran. Làm như vậy, không đòi hỏi phải làm vừa lòng bất kỳ chính phủ nào. Thay vào đó, phương Tây có thể khiến nền kinh tế của hai nước chống lại nhau thông qua các chính sách năng lượng làm giảm giá dầu. Các nước phương tây nhắc nhở nhau rằng, hầu hết ở các nơi trên thế giới, Moscow và Tehran có tầm nhìn chính trị đối đầu, điều này khiến Moscow và Tehran khó hợp tác hơn ở những nơi họ muốn. Nếu không, Iran và Nga có thể vượt qua những khác biệt của họ và xây dựng một quan hệ đối tác bền vững. Kết quả sẽ là một thế giới bất ổn hơn và bạo lực hơn.

Các vấn đề của Nga với phương Tây bắt nguồn từ thời kỳ đầu của kỷ nguyên hậu Chiến tranh Lạnh. Khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, những nhà cải cách thân phương Tây đã đưa ra những thay đổi mang tính đột phá nhằm nhanh chóng tự do hóa nền kinh tế. Nhưng thay vì tạo ra sự tăng trưởng rộng rãi, những năm 1990 đã trở thành một thập kỷ đau thương đối với phần lớn xã hội khi GDP bình quân đầu người thực tế của Nga giảm 42% từ năm 1990 đến năm 1998. Tỷ lệ đói nghèo tăng lên mức kỷ lục 35%. Tỷ lệ tử vong tăng và tuổi thọ trung bình giảm. Người Nga vô cùng hoài niệm về Liên Xô và phẫn nộ với Hoa Kỳ. Nhiều người lan truyền các thuyết âm mưu rằng phương Tây đã âm mưu chia rẽ Liên Xô và sau khi Liên Xô sụp đổ, họ đã cắt giảm viện trợ kinh tế cần thiết và lợi dụng sự yếu kém của Nga. Cuối cùng, họ đã ủng hộ Putin, người đã hứa sẽ khôi phục sự ổn định và tìm cách khôi phục quyền lực của Moscow.

Các vấn đề của Iran với phương Tây cũng có lịch sử lâu dài. Hoa Kỳ đã ủng hộ một cuộc đảo chính năm 1953 lật đổ thủ tướng được bầu của Iran và trao quyền cho quốc vương thân phương Tây, Shah Mohammad Reza Pahlavi. Shah đã phát động một chiến dịch hiện đại hóa kinh tế mang tên Cách mạng Trắng vào đầu những năm 1960, hứa rằng chiến dịch này sẽ mang lại cho người Iran sự tăng trưởng mạnh mẽ và phát triển công nghiệp. Nhưng nhiều lợi ích đã thuộc về tầng lớp trung lưu và thượng lưu. Hàng triệu người Iran nghèo ở vùng nông thôn đã chứng kiến mạng ​​lưới an toàn của họ sụp đổ. Cả đất nước đã mất phương hướng, điều này đã thúc đẩy cuộc cách mạng năm 1979 và đưa chế độ Hồi giáo của Iran lên nắm quyền.

Khi đó, cả Iran và Nga đều có chung sự ngờ vực sâu sắc và rõ ràng đối với trật tự phương Tây (và các cải cách được phương Tây hậu thuẫn). Nhưng điểm tương đồng giữa họ không dừng lại ở đó. Cấu trúc chế độ của mỗi quốc gia cũng khá giống nhau, với các nhà độc tài cá nhân, nền kinh tế do nhà nước lãnh đạo và các cơ quan tình báo mạnh mẽ. Mỗi nước đều có nền kinh tế hỗn hợp, với các ngành công nghiệp chính như năng lượng và ngân hàng do các sĩ quan an ninh kiểm soát chặt chẽ và các chủ sở hữu tư nhân được phép điều hành các doanh nghiệp ở cấp độ thấp hơn. Về phần mình, Iran đã được Khamenei và các mạng lưới của ông điều hành trong hơn 30 năm. Các doanh nghiệp chính của nước này do nhà nước sở hữu hoặc do nhà nước điều hành và thường nằm dưới sự kiểm soát của các quan chức an ninh cấp cao có liên hệ với cơ quan giáo sĩ. Ở cả hai quốc gia, chế độ này mua sự ủng hộ của tầng lớp lao động thông qua các khoản trợ cấp và thanh toán hào phóng. Nó mua sự ủng hộ của nhiều công nhân trung lưu bằng cách tuyển dụng họ vào các doanh nghiệp do nhà nước điều hành.

Washington, hiểu rõ cách thức các chế độ này được cấu trúc, đã ban hành các lệnh trừng phạt rộng rãi nhằm mục đích khiến hệ thống của họ trở nên không bền vững. Nhưng nghịch lý thay, kinh nghiệm của Iran cho thấy các lệnh trừng phạt giúp củng cố chúng bằng cách khiến bất kỳ ai cũng khó có thể phát triển sức mạnh kinh tế bên ngoài giới tinh hoa. Người dân Iran bình thường đã trở nên phụ thuộc nhiều hơn vào nhà nước về tài nguyên. Đổi lại, giới tinh hoa trốn tránh các hạn chế kinh tế bằng cách mang lại của cải thông qua các mạng lưới buôn lậu. Có lẽ đó là lý do tại sao Điện Kremlin đang cố gắng noi theo kinh nghiệm của Iran. Moscow đã mượn cách làm của Iran là sử dụng các công ty vỏ bọc và chuyển dầu từ tàu sang tàu ở vùng biển quốc tế. Vào tháng 7 năm 2024, Bộ Giáo dục Nga thậm chí đã đưa chương trình nghiên cứu về nền kinh tế Iran vào các trường trung học của Nga khi đất nước này chuẩn bị cho khả năng bị trừng phạt trong nhiều thập kỷ.

Quan hệ đối tác quân sự giữa Khamenei và Putin có từ trước cuộc xâm lược của Nga. Hai bên đã xây dựng mối quan hệ quân sự vào năm 2015, khi Nga bắt đầu can thiệp vào Syria để ủng hộ chế độ Bashar al-Assad. Tehran, vốn đã hỗ trợ Damascus, đã cấp cho Nga quyền tiếp cận một căn cứ quân sự bên trong Iran, nơi họ có thể tiến hành các cuộc không kích. Hai nước cũng thành lập một ủy ban quân sự chung để tạo điều kiện cho sự tham gia cấp cao giữa các tướng lĩnh, đào tạo nhân sự và mua sắm vũ khí.

Nhưng kể từ năm 2022, Moscow và Tehran đã đưa hợp tác quốc phòng của họ lên một tầm cao mới. Iran hiện đang cung cấp cho Nga máy bay không người lái chiến đấu, tên lửa đạn đạo, đạn pháo, đạn dược vũ khí nhỏ, tên lửa chống tăng, bom cối và bom lượn. Iran cũng đã giúp Nga xây dựng một nhà máy sản xuất máy bay không người lái ở khu vực Tatarstan của Nga. Đổi lại, Nga đã đồng ý gửi cho Tehran máy bay chiến đấu, trực thăng tấn công, máy bay huấn luyện phản lực và hệ thống radar. Họ cũng đã chia sẻ năng lực mạng và tình báo.

Iran và Nga đang hợp tác trong nhiều lĩnh vực hơn là chỉ các vấn đề quân sự thông thường. Trên thực tế, có vẻ như bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra để theo đuổi mục tiêu lật đổ phương Tây. Điện Kremlin đã chia sẻ thông tin bí mật và công nghệ để giúp Tehran phát triển vũ khí hạt nhân. Nga đã tận dụng vị trí tại Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc của mình để bảo vệ Iran khỏi trách nhiệm giải trình về các hành động gây bất ổn và vi phạm luật pháp quốc tế. Moscow đã chia sẻ thông tin tình báo và cung cấp vũ khí cho các nhóm được Iran hậu thuẫn bao gồm Hamas, Hezbollah và Houthis. Hai quốc gia đang trao đổi kinh nghiệm về cách dập tắt các cuộc biểu tình, phá hoại các nỗ lực của tổ chức đối lập và giám sát công dân của họ. Nga thậm chí còn cung cấp cho Iran công nghệ giám sát tiên tiến.

Hợp tác kinh tế giữa hai quốc gia cũng đang gia tăng. Năm 2023, Tehran đã ký một hiệp định thương mại tự do với Liên minh Kinh tế Á-Âu do Nga đứng đầu và chấp nhận lời mời gia nhập BRICS, một khối do Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc thành lập vào năm 2009 và Nam Phi đã gia nhập vào năm sau. Nga đã thúc đẩy xuất khẩu ngũ cốc sang Iran. Cả hai quốc gia đều thiết lập một cơ chế chuyển tiền liên ngân hàng để họ có thể giao dịch trực tiếp bằng rub và rial, tránh các lệnh trừng phạt của phương Tây khiến họ không thể sử dụng euro hoặc đô la. Họ đã thảo luận về việc tạo ra cái mà họ gọi là Hành lang vận tải quốc tế Bắc-Nam – một tuyến đường thủy, đường sắt và đường bộ kết nối Ấn Độ, Iran và Nga.

Iran và Nga có thể xích lại gần nhau hơn trong những năm tới, nhưng không có gì đảm bảo sự hợp tác lớn hơn. Với tất cả những gì đang diễn ra, liên minh Iran-Nga chứa đựng những mâu thuẫn cố hữu, sự ngờ vực lẫn nhau và những lợi ích cạnh tranh có thể làm suy yếu tính bền vững của liên minh.

Một trong những trở ngại lớn nhất là lịch sử chung của Iran và Nga. Hai quốc gia, được kết nối về mặt địa lý bởi Biển Caspi, đã trải qua nhiều thế kỷ là đối thủ đế quốc. Quân đội Liên Xô đã chiếm đóng một phần Iran trong Thế chiến II và Iran là một phần quan trọng của phe phương Tây trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh. Tất nhiên, điều đó đã thay đổi sau cuộc cách mạng năm 1979, nhưng giới lãnh đạo tôn giáo mới của Iran không mấy quan tâm đến việc liên kết với Liên Xô thế tục. Đại giáo chủ Ruhollah Khomeini, nhà lãnh đạo tối cao đầu tiên của Cộng hòa Hồi giáo, ghét Washington nhưng ông cũng không ưa Moscow hơn, nơi mà ông gọi là “Satan nhỏ bé”.

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các quốc gia đôi khi đạt được những sự điều chỉnh khó xử trong phạm vi hậu Xô Viết. Iran đã lạnh nhạt với người Hồi giáo Chechnya đấu tranh giành độc lập khỏi Nga vào đầu những năm 1990, bất chấp yêu cầu của hiến pháp Iran về “cam kết anh em với tất cả người Hồi giáo và hỗ trợ không khoan nhượng cho những người bị áp bức”. Hai bên đã cảnh giác nhìn nhau khi Armenia và Azerbaijan giao tranh vào đầu những năm 2000. Theo một số cách, họ đang cạnh tranh ngày nay. Kể từ cuộc chiến tranh Nagorno-Karabakh lần thứ hai, vào năm 2020, Moscow đã cố gắng giúp Baku tạo ra một hành lang nối liền Azerbaijan với Thổ Nhĩ Kỳ. Trong khi đó, Tehran đã cố gắng ngăn chặn điều đó, vì lo ngại rằng hành lang này sẽ cắt đứt quyền tiếp cận trực tiếp của họ với Armenia và làm giảm ảnh hưởng trong khu vực.

Iran và Nga cũng không cùng quan điểm ở Trung Đông. Ví dụ, Iran và Israel là những kẻ thù công khai. Nhưng Nga có mối quan hệ làm việc chặt chẽ với Israel. Kể từ khi cuộc chiến ở Gaza bắt đầu vào năm ngoái, Putin đã chỉ trích Israel, thậm chí còn mời một phái đoàn Hamas đến Nga. Vũ khí của Nga cũng đã đến được nhiều đối thủ khu vực của Israel. Nhưng hơn một triệu người Israel nói tiếng Nga, tạo cho Moscow chỗ đứng ở Israel và lý do để ưu tiên an ninh của Israel. Đổi lại, Israel cũng quan tâm đến lợi ích của Nga ở Syria. Nga cũng theo đuổi mối quan hệ chặt chẽ hơn với các nước Ả Rập ở Trung Đông trong nỗ lực khai thác vốn của vùng Vịnh và chuyển vốn của Nga bị trừng phạt thông qua các tổ chức ngân hàng vùng Vịnh. ​​Những nhu cầu này tự nhiên khiến Nga nhạy cảm hơn với nhiều khiếu nại của thế giới Ả Rập về hành vi của Iran.

Iran và Nga không chỉ có lợi ích địa chính trị khác nhau. Bất chấp mọi lời bàn tán về việc hình thành quan hệ đối tác thương mại, cả hai quốc gia cuối cùng đều bị chi phối bởi ngành công nghiệp hydrocarbon của họ. Và vì lệnh trừng phạt của phương Tây hạn chế khả năng bán dầu của họ cho toàn thế giới, họ buộc phải bán dầu lậu ở cùng một số ít thị trường. Cạnh tranh có thể sớm trở nên gay gắt hơn: thị trường lớn nhất trong số đó, Trung Quốc, đang trải qua thời kỳ suy thoái kinh tế có thể làm suy yếu nhu cầu năng lượng của nước này.

Cuối cùng, ở cấp độ cơ bản hơn, Iran và Nga có nền văn hóa chiến lược khác nhau. Trong phần lớn thế kỷ XX, Moscow đã dẫn đầu một trong hai siêu cường toàn cầu và vẫn tiếp tục có cảm giác lịch sử về chủ nghĩa đặc biệt. Mặc dù người Iran nuôi dưỡng tham vọng bá quyền, nhưng những tham vọng đó lại mang tính khu vực sâu sắc. Và hơn cả giấc mơ thống trị, các nhà lãnh đạo Iran bị thúc đẩy bởi sự oán giận. Trong nhiều thế kỷ, người Iran cảm thấy bị các quốc gia hùng mạnh hơn bóc lột, bao gồm cả Nga. Rốt cuộc, vào những năm 2010, Moscow đã hợp tác với các lệnh trừng phạt của phương Tây để gây sức ép buộc Iran phải kiềm chế chương trình hạt nhân của mình.

Hiện tại, Washington gộp Iran và Nga lại với nhau, coi họ như một dạng trục bền vững đe dọa lợi ích của Mỹ. Nhưng xét đến nhiều điểm khác biệt giữa hai quốc gia, các quan chức Hoa Kỳ nên đối xử với họ như những gì họ vốn có: đối tác tiện lợi. Điều đó có nghĩa là, thay vì gộp cả hai lại với nhau, Washington nên kiên nhẫn tìm cách đẩy họ ra xa nhau.

Hoa Kỳ có thể bắt đầu bằng cách thông minh hơn về các lệnh trừng phạt. Các chế độ độc tài cá nhân nhạy cảm hơn các chế độ độc tài khác đối với tình trạng mất doanh thu bên ngoài do lệnh trừng phạt gây ra. Dựa vào sự bảo trợ cá nhân hơn là các thể chế chính thức, họ cần một luồng doanh thu liên tục, có thể dễ dàng bị nhắm mục tiêu. Ở Iran và Nga, các khoản doanh thu này chủ yếu đến từ xuất khẩu nhiên liệu hóa thạch.

Tuy nhiên, chính quyền Biden đã ưu tiên sự ổn định của thị trường năng lượng hơn là hoàn toàn bóp nghẹt Iran và Nga, vì vậy hai quốc gia này đã xoay xở để duy trì sản xuất. Nhưng trong một thế giới hiện đang tràn ngập công suất dự phòng, Hoa Kỳ có thể đủ khả năng để quyết liệt hơn trong việc cắt giảm thu nhập từ hydrocarbon của mình. Nếu Washington tăng cường thực thi các lệnh trừng phạt, họ sẽ làm tăng mức phí bảo hiểm rủi ro mà Trung Quốc sẽ yêu cầu để mua dầu của họ, do đó làm giảm cả doanh thu của Iran và Nga. Việc thực thi chặt chẽ hơn mức giá trần mà Hoa Kỳ và các nước G-7 khác áp dụng đối với dầu của Nga vào năm 2022 cũng sẽ có tác dụng tương tự, giống như bất kỳ nỗ lực nào khác của Hoa Kỳ nhằm hạ giá dầu.

Tương tự như vậy, Hoa Kỳ nên nêu bật những cách khác mà lợi ích của hai quốc gia xung đột. Ví dụ, các chiến dịch thông tin có mục tiêu nên vạch trần cách Nga ủng hộ các ưu tiên của Ả Rập Xê Út và Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất ở Trung Đông hơn là của Iran. Phương Tây cũng nên nêu bật mối quan hệ lâu dài của Nga với Israel. Trong một số trường hợp, phương Tây có thể thổi phồng những sự thật này bằng cách giải mật thông tin phơi bày những căng thẳng này.

Không có nghĩa là bộ chính sách hiện tại của phương Tây đang thất bại. Hoa Kỳ và các đối tác có quyền làm suy yếu khả năng tiếp cận của Iran đối với các hàng hóa và công nghệ quan trọng, sau đó Tehran sẽ tái xuất khẩu sang Nga. Họ nên xây dựng một chiến lược toàn diện hơn, tốt hơn để ngăn chặn sự hỗ trợ của Nga cho các lực lượng ủy nhiệm của Iran. Nhưng việc coi hai quốc gia này như một thực thể duy nhất là không đủ để hạn chế sức mạnh kết hợp. Washington phải khiến hai quốc gia này chống lại nhau hết mức có thể. Trong nhiều thế kỷ, mối quan hệ của Nga và Iran đã căng thẳng. Chiến lược của Hoa Kỳ nên là giúp làm gia tăng những căng thẳng đó.

Maria Snegovaya và Jon B. Alterman

Nguồn: https://www.foreignaffairs.com/russia/iran-and-russias-fragile-partnership

Ech Maymo

Nguồn: https://www.facebook.com/groups/tintucukraina.thegioi/posts/3842155739261378/

Post Views: 64

Share this:

Like this:

Like Loading...